![]() |
07/10/2025 08:59:51 | 40
Mô hình thâm canh lúa cải tiến tại tỉnh Sekong. Ảnh: Nguyễn Cường
Hệ thống canh tác lúa cải tiến (System of Rice Intensification – SRI) là phương pháp canh tác lúa sinh thái, giúp nâng cao năng suất, tiết kiệm chi phí, giảm phát thải khí nhà kính và cải thiện độ phì nhiêu đất. Các biện pháp kỹ thuật được áp dụng bao gồm: gieo sạ mật độ hợp lý (80 kg/ha), bón phân cân đối NPK đúng thời điểm, tưới nước theo phương pháp “ướt – khô xen kẽ”, quản lý dịch hại tổng hợp (IPM).
Tại tỉnh Sekong, diện tích trồng lúa khoảng 11.604 ha, nông dân chủ yếu gieo cấy thủ công, ít đầu tư thâm canh nên năng suất bình quân chỉ đạt 41 tạ/ha. Mô hình triển khai áp dụng đồng bộ các giải pháp kỹ thuật trong thâm canh lúa như: Gieo sạ mật độ hợp lý (80 kg/ha), áp dụng thiết bị sạ hàng; Bón phân cân đối N-P-K, bón đúng thời điểm vào các giai đoạn sinh trưởng phát triển cây lúa như giai đoạn đẻ nhánh, giai đoạn phân hóa đòng; Điều tiết nước tưới theo phương pháp tưới “ướt khô xen kẽ” giúp lúa cứng cây, hạn chế đẻ nhánh vô hiệu và giảm tỉ lệ ốc bưu vàng gây hại lúa; Quản lý sâu bệnh hại tổng hợp theo IPM. Nhờ vậy, năng suất lúa tăng 60% đến 80% so với tập quán canh tác truyền thống, góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho các hộ dân tham gia.
Mặc dù vậy, trong quá trình triển khai mô hình vẫn tồn tại một số khó khăn như: Giống lúa từ Việt Nam là giống lúa tẻ, khác so với tập quán canh tác các giống lúa nếp truyền thống tại Lào; khả năng chống chịu sâu bệnh hại giống lúa kém hơn hẳn so với giống lúa bản địa. Công tác tuyên truyền, tập huấn cho cán bộ và nông dân về kỹ thuật canh tác lúa cải tiến chưa được chú trọng. Việc thay đổi tập quán canh tác từ cấy sang gieo sạ trực tiếp nên nhiều hộ dân còn gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, nguồn nước tưới chưa chủ động, nhiều điểm canh tác lúa còn phụ thuộc hoàn toàn vào nước trời. Mặt bằng ruộng chưa bằng phẳng ảnh hưởng lớn đến quá trình chăm sóc, quản lý nước tưới và quản lý cỏ dại. Công việc thăm đồng và phát hiện các đối tượng sâu bệnh hại phát sinh và gây hại của cán bộ ngành nông nghiệp và hộ dân còn nhiều hạn chế; kinh nghiệm sản xuất lúa có đầu tư thâm canh của bà con chưa có, nên còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện.
Bài học kinh nghiệm khi xây dựng mô hình khuyến nông tại Lào:
Một là, thành công mô hình phụ thuộc rất lớn vào trình độ kỹ thuật và nhận thức của nông dân. Việc tổ chức các lớp đào tạo kỹ thuật, giúp người dân tiếp cận và áp dụng thành công kỹ thuật canh tác mới. Nâng cao nhận thức và năng lực của nông dân để họ thấy thâm canh lúa cải tiến là phương pháp canh tác đòi hỏi sự thay đổi căn bản trong kỹ thuật và tư duy sản xuất. Trình độ tiếp nhận kỹ thuật, hiểu biết về quản lý nước, dinh dưỡng và chăm sóc cây trồng của người nông dân đóng vai trò quyết định.
Hai là, hệ thống thủy lợi và khả năng điều tiết nước linh hoạt là điều kiện tiên quyết để triển khai mô hình hiệu quả. Điều này đòi hỏi hệ thống thủy lợi linh hoạt, chủ động và phù hợp với điều kiện địa phương nhằm duy trì độ ẩm tối ưu cho sự phát triển của bộ rễ và năng suất cây lúa.
Ba là, cần có cơ giới hóa phù hợp trong khâu làm đất, nhất là tạo độ bằng phẳng đồng ruộng để thuận lợi trong quá trình gieo sạ, chăm sóc, điều tiết nước tưới và quản lý cỏ dại.
Bốn là, để mô hình được duy trì và nhân rộng, mô hình sử dụng giống lúa bản địa tại Lào thay vì sử dụng giống lúa từ Việt Nam đem qua.
Năm là, nâng cao độ thuần các giống lúa bản địa tại Lào, nhằm tăng năng suất và chất lượng.
Sáu là, đầu tư thâm canh cho cây lúa, chú trọng việc bón lót và bón thúc; Thường xuyên thăm đồng ít nhất 2 lần/tuần để điều tra, phát hiện sớm các đối tượng sâu bệnh hại và có biện pháp quản lý kịp thời, hiệu quả.
Bảy là, cần có chính sách hỗ trợ kinh phí cho CBKT Lào trong thời gian thực hiện mô hình./.
Nguyễn Cường
Lượt truy cập: 192794
Đang truy cập: 4